Showing posts with label Nhân Quả. Show all posts
Showing posts with label Nhân Quả. Show all posts

Saturday, 8 August 2020

SỢ Ở TÙ



Đối với 1 người bình thường chưa bao giờ ở tù thì sự sợ hãi đó sẽ đ bám và ám ảnh người đó suốt ngày đêm, từ từ trở thành 1 tâm bệnh, dẫn đến trầm cảm và các triệu chứng tâm thần khác. 

Vậy có cách nào vượt qua được sự sợ hãi đó không ? Dĩ nhiên là có.

1/ Nếu chúng ta hỏi những người thường xuyên phạm tội ở tù thì họ sẽ trả lời “Ở tù nhiều lần rồi quen thôi, không còn sợ nữa“. 

2/ Cách 2 là tìm bác sĩ tâm lý, uống thuốc an thần. 

3/ Cách thứ 3 là ta phải dùng phương pháp của Phật Giáo. Phương pháp của Phật giáo chỉ rõ nguồn gốc của tâm sợ đó từ đâu mà có rồi diệt chúng. 

Phật giáo là một tôn giáo có nền tảng đạo đức nhân bản-nhân quả, dạy con người sống có đạo đức để làm chủ nhân quả của mình. Bởi nhân quả luôn công bằng, không thiên vị ai, dù người đó là Phật, cũng chịu nhân quả chi phối. 

Thời đức Phật còn tại thế có một tên cướp tàn ác thích giết người, giết xong cắt tai và xâu lại đeo trên người. Sau khi gặp được đức Phật, đức Phật độ hóa cho anh ta giúp anh ta hiểu rõ được đâu là thiện ác, đâu là giải thoát. Anh ta bèn muốn quy y Phật. Đức Phật dĩ nhiên là đồng ý nhưng với điều kiện anh ta phải ra đầu thú và chấp nhận sự trừng phạt của pháp luật thời đó. 

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy đức Phật là một người có trí tuệ và rất công bằng, không dùng quyền uy của mình xen vào nhân quả của anh cướp đó, vì nếu đức Phật nhúng tay vào thì xã hội sẽ không còn công bằng nữa, dân chúng sẽ căm phẫn và ghét Phật hơn. Nếu chúng ta xen vào nhân quả của ai đó thì chúng ta phải chịu gánh nhân quả thay cho họ. 

Anh cướp sau khi được đức Phật độ hóa thì tìm thấy được con đường giải thoát cho nên sẽ sẵn sàng chấp nhận mọi nhân quả đến với mình khi ra đầu thú dù là bị treo cổ tử hình. 

Có lẽ chúng ta sẽ hỏi nếu như anh cướp bị treo cổ chết thì làm sao theo Đức Phật tu tập giải thoát. Trong Phật giáo có câu “Phật tại tâm” . Khi anh cướp hiểu rõ những hành động cướp giết người của mình xưa kia là ác, là đem đau khổ đến cho người, cho mình. Rồi quyết tâm từ bỏ, quay đầu trở thành một người tốt thì chính ngay đó tâm của anh ta đã giải thoát. Mà đã giải thoát rồi thì dù có ở trong tù, bị đày hay bị treo cổ, tâm anh ta cũng đã giải thoát rồi. Bởi những việc cướp giết kia đều đã là quá khứ, anh cướp đang sống với tâm giải thoát trong hiện tại. 

Sợ tù tội là một tâm bệnh, bởi vì chúng ta không hiểu nhân quả, không chấp nhận nhân quả. Dù cho chúng ta có đi bao nhiêu bác sĩ, uống bao nhiêu thuốc quý hiếm, đi chùa, tụng kinh, làm việc thiện bao nhiêu cũng là những cách trị ngọn hoặc trị không đúng bệnh chứ không phải trị đúng gốc bệnh. 

Trị bệnh tận gốc là phải dùng sự hiểu biết tư duy quán xét vấn đề cho thấu đáo để thấy rõ quả tù tội hôm nay là do tâm tham, sân, si của chúng ta mà ra. Do bị tâm tham chi phối cho nên nói hay làm những việc trái pháp luật nên phải chịu bị pháp luật trừng trị. 

Pháp luật cũng là một phần của nhân quả. Mà đã là nhân quả thì nó sẽ công bằng không thiên vị ai cả, không ai có thể hối lộ để thoát được. Do vậy đừng nghĩ rằng đi chùa, cầu cúng Phật hay thần thánh nào sẽ thoát khỏi tù tội. Đó là chúng ta đang bị tâm tham lừa dối. Nếu chúng ta nghĩ như vậy thì tâm sợ hãi của chúng ta càng mạnh hơn mà thôi. 

Chỉ có đối diện nhân quả, chấp nhận và vượt qua. Sau khi quán xét thấy rõ do nhân tham trước kia mà có quả hôm nay, thì chúng ta tự quyết tâm sửa đổi, không bao giờ lặp lại những hành động tham kia nữa dù bất kỳ hoàn cảnh nào, nghĩa là trong hiện tại chúng ta đang sống với tâm không tham. Mà tâm không tham chính là tâm giải thoát. 

Do vậy khi tâm sợ tù tội khởi lên trong đầu chúng ta hãy dùng phương pháp “Như lý tác ý”. Đây là một phương pháp nhắc tâm,  như cái lý giải thoát nhắc tâm bằng cách tác ý để dẫn tâm vào chỗ giải thoát. 

Ví dụ như chúng ta nhắc “ tâm  tham cút đi, mày là tâm ác, mang đau khổ đến cho người, cho mình, từ đây về sau ta sẽ sống thiện, không tham nữa. Dù cho tù tội gì tôi cũng chấp nhận hết. Tâm sợ hãi cút hết“

Hoặc là nhắc : “Hiện tại tâm ta không có tham, ta đang sống với tâm giải thoát, thì có gì phải sợ, nhân quả nào đến ta cũng chấp nhận hết, tâm sợ hãi cút đi”

Sau Khi nhắc đuổi tâm sợ hãi thì tác ý “ tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự”

Tùy nhân quả và tâm trạng của mình mà chúng ta trạch ra câu tác ý để đuổi những tâm tư tiêu cực. Chỉ có như vậy chúng ta mới vượt qua được nhân quả. 

Nói rõ hơn về tâm sợ hãi Đức Phật đã dạy qua bài“ năm sợ hãi và hận thù”. https://www.nguyenthuychonnhu.net/index.php/bdt/106-5sohai      

Do không sống đúng ngũ giới mà con người thường sống trong sợ hãi và hận thù. Ai sống đúng ngũ giới thì họ đâu còn có sợ hãi, dù nhân quả gì đến họ đều chấp nhận vì họ biết trong hiện tại họ đang gieo nhân thiện thì tương lai họ sẽ gặt quả thiện.
1-  Người thường sát sanh, ăn thịt chúng sanh thì luôn sợ bị giết, bị đánh đập, sợ bị đau bệnh, sợ già, sợ chết
2-  Người thường trộm cắp thì sợ nghèo túng, sợ mất đồ, sợ trộm cắp, sợ tốn tiền hao của, sợ bị lừa gạt tiền tài của cải, sợ tù tội. 
3-  Người thường có những tà hạnh thì sợ người hay vật hại mình, sợ người khác phát hiện việc làm xấu của mình, sợ ở tù. 
4-  Người thường nói dối thì sợ bị lừa dối, sợ bị gạt, luôn sống trong nghi ngờ người khác, không tin tưởng ai, sợ bị phát giác, sợ người khác phát hiện mình nói dối, lừa gạt người khác. 
5-  Người thường uống rượu thì sợ bệnh, sợ người khác hơn mình, chèn ép mình,...

Ngoài ra vì con người không hiểu lý nhân duyên, thường chấp cái thân, tâm là mình, là của mình cho nên chạy theo ngũ dục lạc: sắc, danh, lợi, ăn và ngủ. Hết thích cái này đến cái khác, do vậy luôn sợ mất, sợ thân bị tổn hại, sợ xấu, sợ bị giết, bị già, bị chết,...sợ đủ thứ. Suốt đời làm nô lệ cho cái thân và tâm, bị chúng coi như nô lệ, bị sai bảo, suốt ngày chạy đông chạy tây, tâm  như con khỉ hết suy nghĩ cái này đến suy nghĩ cái khác không bao giờ yên lặng trừ lúc đi ngủ. 

Tóm lại, muốn trị được mọi bệnh tận gốc thì phải hiểu rõ nhân quả, luôn sống thiện nghĩa là luôn hành thập thiện và có tri kiến giải thoát thì tâm bệnh sợ hãi sẽ được diệt trừ tận gốc. 



Friday, 31 July 2020

TRUNG ĐẠO CỦA ĐẠO PHẬT


(Vấn đạo được ghi chép từ pháp thoại trong giáo án Giới Hành băng số 25 - Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng năm 1998 tại Tu viện Chơn Như)

Đáp: Ở đây có ba cái thọ: Thọ lạc, thọ khổ, và cái chỗ thọ không lạc cũng không khổ. Thường thường bên Thiền Đông Độ người ta chấp cái chỗ “không buồn cũng không vui”, không khổ mà cũng không có gì vui, tức là người ta không bị dính mắc vào hai chỗ này. Trạng thái chỗ thọ bất lạc bất khổ này, người ta nghĩ là TRUNG ĐẠO, đường lối của Đạo Phật. Nhưng sự thật ở đây, thọ là vô thường, dù là bất lạc bất thọ khổ chỉ trong một giây lát nào đó, rồi nó sẽ có thọ lạc hoặc thọ khổ, nó là bản chất vô thường rồi. Dù là thọ lạc, thọ khổ cũng bản chất vô thường, nó đâu phải thường hằng, vậy mà chúng ta chấp nó là TRUNG ĐẠO, đường lối của Đạo Phật thì không phải. 

Cho nên ở đây Thầy đáp: “Theo Đạo Phật có ba trạng thái: Thọ lạc, thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ. Ba Thọ này Đức Phật không chấp nhận thọ nào cả, luôn luôn tu tập tìm mọi cách để xả ly chúng.” Xả ly ba cái thọ này, bởi vì thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ này không phải là TRUNG ĐẠO, không phải là cứu cánh. Nhưng Thiền Tông có thể chấp nhận nó là trạng thái “chẳng niệm thiện, niệm ác”, do cái chỗ nó không thiện không ác, chẳng buồn cũng chẳng vui. Thiện là vui, ác là khổ, mà đây nó không khổ cũng không vui, do đó nó là chỗ bất lạc, bất khổ của Phật đã chỉ. Chỗ này Đức Phật bảo đây là trạng thái còn vô thường, bởi vì nó là thọ vô thường, dù là thọ bất lạc bất khổ cũng vẫn vô thường, cho nên nó chưa phải là chỗ cứu cánh của chúng ta. Trong Kinh Đức Phật cũng xác định để chúng ta thấy rõ được con đường tu tập của chúng ta. Thọ bất lạc bất khổ, trạng thái này tương ưng với trạng thái “chẳng niệm thiện, niệm ác” của Thiền Đông Độ. Trạng thái này xét ra chỗ chẳng niệm thiện niệm ác, tức là niệm không vui, không buồn, thì nơi này coi như "bản lai diện mục hiện tiền". Nhưng chỗ này không phải là chỗ mà Đức Phật chấp nhận, vì nó còn cái thọ, thọ cái chỗ mà không vui, không buồn. Còn niệm không thiện, không ác tức là nó còn ở trong cái chỗ vô thường. Thí dụ bây giờ nghe danh từ “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì chúng ta ngỡ tưởng là trong đầu của chúng ta không có niệm thiện niệm ác thì phải có một trạng thái nào đó, trạng thái đó là “bất khổ bất lạc thọ”. Nghĩa là không có khổ cũng không có lạc, cho nên không có niệm thiện niệm ác, tức là không vui cũng không buồn. Mà không vui không buồn thì nó phải có trạng thái thọ, thọ cái bất khổ bất lạc đó chứ? Chứ đâu phải nó không có niệm thiện niệm ác thì nó ở không ngơ, không có cái gì! Nó phải còn ở trong cái thọ đó. Cho nên khi nói “chẳng niệm thiện niệm ác” thì chúng ta phải suy nghĩ đến một trạng thái trong cái “chẳng niệm thiện niệm ác” này, là trạng thái “chẳng thọ khổ mà chẳng thọ lạc”. Như vậy chúng ta mới thấy rõ được chỗ mà chấp của bên Thiền Đông Độ. Chỗ đó là chỗ mà Phật đã thấy thọ là vô thường, dù là bất lạc bất thọ khổ cũng là vô thường, bởi vì thọ Phật đã nói vô thường mà. 

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, ngũ uẩn này là vô thường. Rồi Đức Phật xác định bốn chỗ chúng ta đang tu tập cho nó gọt sạch được, để đi đến giải thoát. Thì Thân, Thọ, Tâm, Pháp Đức Phật cũng xác định bốn chỗ này vô thường, khổ, không, vô ngã. Bốn chỗ vô thường, khổ, không, vô ngã rõ ràng. Đức Phật cũng xác định ở chỗ Thọ này là Vô thường, mà nó là Không, nó cũng Vô ngã, cái Thọ này cũng không có ngã nữa. Có đủ duyên hợp lại nó mới thành mụn ghẻ, nó mới thành đau, thành đớn. Ví dụ tay chúng ta không đứt thì làm sao chúng ta có đau đớn được. Do nhân duyên chúng ta chặt trúc, hoặc chặt cây, hay làm gì đó, hoặc nhổ cỏ, nó mới đứt tay chúng ta. Cái duyên hợp lại làm cho hoàn cảnh đó xảy ra vết thương, từ đó chúng ta thấy ngón tay mình đau, thọ khổ đó mới xảy ra. Hoặc là chúng ta ăn miếng ăn đó nghe ngon, ngọt ở trong miệng, đó là do duyên hợp lại. Khi đó cảm xúc của chúng ta tiếp xúc với cái pháp trần sinh ra thọ lạc, ăn thấy ngon, vì vậy chúng ta mới sanh ra ái dục, cái ưa thích đó làm chúng ta đau khổ. Mình ưa thích nó thì mình phải tìm kiếm nó, như vậy mình sẽ gặp nhiều đau khổ trên sự yêu thích. Đó là nguyên nhân đau khổ, là nơi tập hợp tất cả sự đau khổ đến, vì ưa thích tức là nó phải tập hợp. Nó không thể được gọi là TRUNG ĐẠO của Đạo Phật. Nó chỉ là một trạng thái tâm bình thường không khổ không lạc mà thôi. Như bây giờ chúng ta không có khổ không có lạc, tức là trạng thái tâm bình thường. Trạng thái tâm bình thường này thuộc về ý thức không niệm thiện, niệm ác mà thôi. 

TRUNG ĐẠO của Đạo Phật không phải là pháp môn nằm giữa pháp môn đối đãi. Nghĩa là đừng nghĩ rằng TRUNG ĐẠO nằm giữa các pháp môn đối đãi. Pháp môn đối đãi bên đây khổ, bên đây lạc, thì TRUNG ĐẠO nằm giữa cái không khổ không lạc này mà nghĩ rằng đó là TRUNG ĐẠO của Đạo Phật. Không phải đâu! Bởi vì chúng ta phải hiểu rõ ràng, khi chúng ta học Tứ Chánh Cần chúng ta mới hiểu rõ rằng TRUNG ĐẠO của Phật không nằm giữa pháp đối đãi, hay pháp nhị nguyên đâu. Nó không phải là cái hiểu quá tầm thường như vậy. 

TRUNG ĐẠO của Đạo Phật là một pháp môn vượt ra khỏi nhân quả. Đường lối của Đạo Phật tu tập để giúp chúng ta vượt ra nhân quả, vì con người, vì muôn vật từ nhân quả mà sanh ra, chết đi về nhân quả. Cho nên chúng ta muốn ra khỏi sự sống chết, làm chủ sự sống chết, chấm dứt tái sanh luân hồi, thì chúng ta phải vượt ra khỏi nhân quả. Nếu chúng ta ở trong vòng nhân quả thì chúng ta sẽ bị nhân quả chi phối mà tái sinh luân hồi, và thọ biết bao nhiêu khổ và vui ở trong cái nhân quả. 

Cho nên mục đích TRUNG ĐẠO của Đạo Phật là làm sao vượt ra khỏi nhân quả, nhưng lấy thiện pháp làm nền tảng, làm điểm tựa, làm hòn đảo, làm ngọn đèn. Lấy Thiện pháp làm, cho nên ở kia thì nó phải bỏ thiện và bỏ ác, còn ở đây không bỏ thiện mà lấy thiện làm nền tảng để vượt ra nhân quả. Do nhân quả mới tạo ra thiện ác, các thầy phải hiểu. Nhưng nó không bỏ cái đối đãi của pháp ác, tức là nó lấy cái thiện để làm điểm tựa, chứ nó không phải chấp nhận cái thiện. Nó làm điểm tựa để vượt qua, vì vậy Đạo Phật mới lấy Giới luật làm đầu, bởi vì Giới luật của Phật là thiện pháp. Quý thầy đã hiểu chưa? Từ thiện pháp đó, những người tu sĩ chúng ta mới ly dục, ly ác pháp, mới có được Sơ Thiền. Còn nếu chúng ta không ly dục ly ác pháp thì chúng ta sẽ ở trong ác pháp, thì chúng ta đâu làm sao mà nhập Sơ Thiền được!
Cho nên phải hiểu TRUNG ĐẠO của Đạo Phật lấy Thiện pháp làm nền tảng, làm điểm tựa, làm hòn đảo, làm ngọn đèn sáng để soi cho mình đi trên con đường đó để vượt qua nhân quả. Vì nhân quả là nguyên nhân để chúng ta tái sinh luân hồi, mãi mãi nhiều kiếp, nhiều đời chúng ta ở trong lục đạo, ở trong sự đau khổ. Vì thế Đức Phật không chấp nhận thọ bất lạc bất khổ là cứu cánh, là Đạo mình. Nghĩa là Đức Phật không chấp nhận trạng thái đó là cứu cánh đâu. Cứu cánh của Đạo Phật là đoạn dứt ác pháp, tăng trưởng thiện pháp, tức là đoạn dục. Nghĩa là mình đoạn dục thì ác pháp sẽ không còn, mà khi đoạn dục tức là chúng ta còn ở trong Thiện pháp. Cho nên trong Sơ thiền Đức Phật có dạy rất kỹ, Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy. Đức Phật nói ly dục ly ác pháp nhập Sơ thiền. Nhập Sơ thiền do ly dục sanh hỷ lạc có tầm có tứ. Có tầm là có sự suy nghĩ, mà suy nghĩ thiện thì Đức Phật đâu có cấm. Như bây giờ thấy một người đang đau khổ thì chúng ta giúp đỡ họ bằng cách này khác. Thấy người đang đói chúng ta đem cơm cho ăn, thì đâu phải niệm đó Đức Phật bảo chúng ta đừng có niệm. Cho nên chúng ta vẫn làm điều thiện được ở trong Tứ Vô Lượng, tức là tâm Từ, Bi, Hỉ, Xả của chúng ta vẫn tu tập được điều đó. Điều đó vẫn là thiện chứ đâu phải là ác, cho nên Đức Phật vẫn lấy cái thiện để từ cái thiện đó giúp cho chúng ta vượt qua pháp ác. Người ta chửi mình mà mình thương người, thì làm sao mình giận người ta được? Đó không phải là cách đối trị tâm Từ, tâm Bi của mình đối với tâm Sân của mình sao? Cho nên Đức Phật đứng trên nền tảng của Thiện để vượt qua nhân quả.

Khi vượt qua được nhân quả thì không còn thiện và ác. Bây giờ chúng ta đang ở trong ác pháp mà chúng ta không chấp nhận thiện pháp thì chúng ta lấy cái gì đối trị nó được? Cho nên Đạo Phật dạy chúng ta rất rõ, biết đứng ở chỗ đứng của chúng ta rất vững, từ đó chúng ta hoàn toàn được hạnh phúc của tâm hồn, vì Thiện không làm mình khổ, mà không làm người khác khổ, mục đích diệt Ác. Ở đây Thầy xin đọc lại chỗ này: "Cứu cánh của Đạo Phật là đoạn dứt ác pháp, tăng trưởng thiện pháp, tức là đoạn dục." Nói đoạn dứt ác pháp mà tăng trưởng thiện pháp, thì mình biết là đoạn dục. Dục là lòng ham muốn, đó là Tập Đế, do lòng ham muốn của mình mà nó tập bao nhiêu sự khổ đến cho mình. Đó là trong Tứ Diệu Đế Đức Phật đã chỉ định cho thấy nguyên nhân sanh ra khổ của con người là dục. Bây giờ chúng ta đoạn dứt ác mà tăng trưởng thiện, tức là đoạn dứt dục. Đoạn dục tức là Diệt Đế, còn gọi là Niết Bàn. Diệt Đế người ta có thể nói nó là Niết Bàn được, bởi vì tâm ham muốn chúng ta đã diệt được rồi, đoạn nó được rồi, thì trạng thái ở trong cái tâm đó là Niết Bàn, chứ không phải đi tìm cảnh giới nào mà có Niết Bàn. Chính trạng thái tâm của chúng ta đã hết ham muốn thì đó là Niết Bàn. Mà hết ham muốn thì không còn ác pháp, cho nên còn toàn là thiện pháp. Cho nên có tầm có tứ chứ đâu phải hết, tức là có sự suy tư ở trong pháp Thiện chứ không phải là còn suy tư ở trong pháp Ác. Không còn những thủ đoạn gian ác, không còn những ý nghĩ hung ác, không còn những lời nói dữ tợn nữa. Như vậy chúng ta thấy rất rõ con đường của Đạo Phật chỉ chúng ta cách thức đứng trên chỗ nào để chúng ta chuẩn bị cho cuộc chiến đấu với nội tâm của chúng ta. 

Muốn diệt Ác pháp chỉ có Thiện pháp mới diệt được mà thôi. Các thầy thấy rất rõ là trong Thập Thiện Đức Phật dạy rất rõ, có Mười Điều Lành mà Mười điều lành đó thì mình nhắm vào ba điều lành của ý mình nói, tức là không tham, không sân, không si. Người nào có tham, có sân, có si, thì người đó ở trong ác pháp chứ gì, mà không tham, không sân, không si thì thiện pháp chứ gì, đó rất rõ ràng. Vì vậy bây giờ chúng ta muốn tăng trưởng thiện pháp, tức là kéo dài thời gian không tham, không sân, không si. Mà không tham, sân, si tức là đoạn dứt ác pháp rồi, thì đâu có gì mà không giải thoát tâm hồn chúng ta? Cho nên thấy rất rõ. Nếu chúng ta không đứng trên thiện pháp không tham, không sân, không si thì chúng ta đứng chỗ nào? Đứng chỗ chẳng niệm thiện, niệm ác tức là chúng ta đã hủy luôn nền tảng thiện pháp rồi, thì làm sao chúng ta gọi là giải thoát cho được? Dù chúng ta có tu một ngàn kiếp đi nữa cái chỗ “chẳng niệm thiện, niệm ác” thì chúng ta cũng chẳng giải thoát được khỏi “chẳng niệm thiện, niệm ác”. Bởi vì chúng ta đã xóa bỏ nó đi, xóa bỏ nó đi thì chúng ta đứng trên nền tảng nào để chúng ta biết được rằng tâm chúng ta giải thoát? Vì giải thoát của Đạo Phật nhắm vào tam độc tham, sân, si. Mà tham, sân, si là ác pháp, cho nên chúng ta mới dựa vào cái không tham, sân, si này là cái pháp thiện để chúng ta diệt ác pháp mới được. Còn bây giờ tâm chúng ta có tham mà chúng ta không biết, chúng ta nói không có tham, tức là sai. Cho nên người phá giới, ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, vật chất đầy đủ mà họ nói rằng họ không dính mắc, sự thật ra thì người đó chưa phải là người trí tuệ của Đạo Phật, họ không thấy. 

Muốn diệt ác pháp, chỉ có thiện pháp mới diệt được mà thôi. Nhưng diệt được ác pháp thì cũng không dính mắc trong thiện pháp, nhưng lại sống trong thiện pháp. Cho nên bất thọ lạc, bất thọ khổ là một trạng thái chẳng thiện, chẳng ác. Ngược lại TRUNG ĐẠO của Đạo Phật sống trong thiện pháp mà không bị dính mắc thiện pháp. Cái hay là chúng ta lấy nó làm nền tảng để vượt qua nhân quả, cho nên trong hành động nhân quả chúng ta sẽ làm chủ được hoàn toàn, chúng ta không mắc vào thiện pháp. Còn nếu chúng ta mắc vào thiện pháp, chúng ta cứ lo đi từ thiện, cứu trợ hoặc làm chuyện này, chuyện kia, rồi kêu gọi phật tử đóng tiền cất Chùa, xây Tháp gọi là thiện pháp, thì cái đó không thiện gì nữa hết, mà đời chúng ta không giải thoát chỗ nào hết.
Note: Phần trên được bổ sung thêm vào bài đăng ngày 19/04/2020
—————

Hỏi: Thưa thầy! Trung đạo của đạo Phật là gì? Nó có khác gì so với đạo đức nhân quả hay không?

Thật sự ra thì hỏi về trung đạo thì hầu như người ta hiểu một cách mơ hồ lắm, cái trung đạo của đạo Phật mà so sánh với đạo đức nhân quả thì cái đạo đức nhân quả là cái trung đạo của đạo Phật. Nó từ cái nền tảng đó mà đi lên, thì nó trở về với cái đời sống mà thành tựu của đạo pháp, rồi thì cái đạo đức nhân quả đó là trung đạo. Nó toàn thiện chứ không phải là nửa thiện nửa ác, gọi là trung đạo. Nó nửa bên đây nửa bên kia thì nó là trung đạo. Không phải! Nó toàn thiện. Mà thiện của Phật nó không phải là chuyện cái kiểu mà làm mình khổ mà người khác vui không phải vậy, cho nên nó là cái đạo đức trung đạo, lấy cái nhân quả mà làm cái nền tảng của nó. Vì vậy mà coi như trung đạo là đạo đức nhân quả. 
Cho nên đạo Phật - cái đạo đức nhân quả là cái đạo đức của đạo Phật, nền đạo đức của đạo Phật ở chỗ đạo đức nhân quả.

Tuesday, 28 July 2020

NHÂN QUẢ XUNG QUANH

Có người đặt câu hỏi: con người từ đâu sinh ra. Đức Phật nói rằng: con người từ nhân quả sinh ra, sống trong nhân quả và chết với nhân quả.

Vậy hiện tại hằng ngày con người sống trong nhân quả nghĩa là sao ? Điều đó nghĩa là mọi việc xảy ra xung quanh chúng ta trong hiện tại đều là nhân quả. Cụ thể như: 

1/ Là những ý kiến tốt, ý kiến xấu, suy nghĩ tốt, suy nghĩ xấu.
2/ Là những lời nói tốt, lời nói xấu, là khi bị nói oan ức, la mắng, chê bai, trách cứ, là những lời nói vô tâm như con dao sắc đâm nát tâm can, là những lời nói dối, lời nói lừa gạt, tráo trở, thay trắng đổi đen, là những lời nói ly gián, chia rẽ, đâm chọc,... 
3/ Là những hành động tốt, hành động xấu, là bị đánh, bị đâm, bị chém, bị bắn, bị giết, là tai nạn, là khổ vì sanh nhai, là nợ, là bệnh tật, là già, là chết, là thất nghiệp, bị chèn ép, xua đuổi, xem thường, bị phân biệt chủng tộc, bị đối xử như nô lệ, bị tù tội, bị rượt đuổi, ra tòa, hay nằm bệnh viện, thương tật, chết đi sống lại,...
4/ Là hoàn cảnh giàu, nghèo, khỏe hay bệnh, thành công hay thất bại, hạnh phúc hay đau khổ, vui hay buồn, nơi sinh sống, nơi chết, nhiều bạn hay ít bạn, người thương hay người ghét, người giúp hay người hại, người đòi nợ hay trả nợ, cha, mẹ, anh chị em, bà con bạn bè, các loài động vật và cây cỏ xung quanh,...theo tôn giáo, chính tri hay tổ chức nào,...làm từ thiện hay ăn xin,...
5/ Là những chuyện không tin được như thần đồng, thiên tài, khả năng đặc biệt như siêu nhân, siêu trí tuệ,... Hoặc ngược lại có người ngu dốt, tự ti, thần kinh, không coi ai ra gì, thích quậy phá, chơi bời, thích bắn súng, giết người, trộm cắp. Có người thích trở thành bác sĩ, kỷ sư, phi hành gia, nhà khoa học, có người thích làm nông dân, doanh nhân, người thám hiểm, tài tử,...

Tất cả những gì chúng ta thấy xung quanh đều là nhân quả.


Đôi khi chúng ta thấy Nhân quả rất tàn nhẫn, vô tâm, không lý lẽ, không tình thương, không khoan dung tha thứ. Nhưng đã là nhân quả thì nó rất công bằng, bởi vì những gì chúng ta đang đón nhận đều là do nhân chúng ta đã tạo ra trong quá khứ. Quả hiện tại như tấm gương giúp chúng ta thấy được những gì chúng ta đã nói, làm và đối xử với người vật khác trong quá khứ.

Thí dụ như cha mẹ của chúng ta, họ cũng chỉ là những khối duyên nhân quả thường xuyên bị nhân quả chi phối, có khi ta thấy họ rất yêu thương ta, chiều chuộng, nhẹ nhàng. Nhưng cũng có khi họ đánh đập ta rất tàn nhẫn, la mắng, giận dữ, quát tháo to tiếng, luôn dùng thái độ xem thường chúng ta, không coi trọng ý kiến, lời nói và việc làm của chúng ta, họ luôn nghĩ họ đúng, chúng ta làm gì cũng sai, luôn bị họ quát mắng, tư tưởng ý kiến luôn bất đồng,...Tất cả những hành động, lời nói, ý kiến vô minh của họ đều đang bị nhân quả của họ điều khiển và sai khiến. Họ thật đáng thương, không làm chủ được tham, sân si mạn nghi, do vậy bị chúng điều khiển và sai khiến. Chính vì vô minh, họ không phân biệt được thiện ác, nên họ vẫn đang sống làm khổ họ, khổ người và làm khổ các loài vật khác mà không biết. Càng ngày càng tạo thêm nghiệp khổ cho chính họ và người khác.


Nhân quả tốt thì ít, nhưng nhân quả xấu thì nhiều, mà còn liên tục, mãi mãi dai dẳng kéo dài cho đến hơi thở cuối cùng của cuộc đời. 


Im lặng, nhẫn nhịn nhìn nhân quả đến từng giây, từng phút, từng ngày, chúng ta mới cảm nhận được cuộc đời này đúng là khổ, không đáng cho chúng ta lưu luyến. 


Nhờ im lặng, nhẫn nhịn và biết yêu thương tha thứ, nhân quả sẽ tự thay đổi. Do đó chúng ta cảm nhận được sự vô thường của chúng. Sự trui rèn và giác ngộ đó rất có ích cho tâm cảnh của chúng ta. 


Dù nhân quả gì cũng từ duyên mà ra, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan. Duyên có duyên trong, duyên ngoài. Duyên trong có thể là tâm tham, sân, si, mạn, nghi, là sự sợ hãi, lo lắng, đau khổ, phiền não, là nóng là lạnh, là yếu là khỏe, là nội tạng, là vi trùng, ... Duyên ngoài có thể là cảnh vật, hình dáng, âm thanh, hương, vị, xúc chạm, là ý kiến, lời nói và hành động của người vật khác hoặc hoàn cảnh, điều kiện môi trường, thời tiết xung quanh,... 


Nếu  đủ duyên trong và ngoài kết hợp thì sẽ có nhân quả, nhưng nếu chỉ có duyên trong mà không có duyên ngoài hoặc có ngoài mà không có trong thì nhân quả sẽ không thành. Ví dụ: khi trong tâm có sân thì khi nghe ai la mắng mình, mình sẽ giận và la mắng lại. Nhưng nếu không có tâm sân giận thì dù ai la mắng mình mình cũng không giận và không la mắng lại. Hoặc dù cho tâm có sân nhưng bên ngoài không ai la mắng mình thì mình cũng không tự giận mà la mắng người khác. 

Thấu triệt được nhân quả để thấy không có cái ngã, cái tôi, cái của tôi, không có mình, không có người khác, không người thân, tất cả chỉ là duyên nhân quả mà thôi. Có như vậy chúng ta mới có thể bất động, thay đổi nhân quả.

Sunday, 12 July 2020

TRỊ BỆNH TẬN GỐC

Bệnh từ đâu mà có ? Chỉ khi hiểu rõ căn nguyên thì mới trị đươc tận gốc. Đi bác sĩ hay uống thuốc chỉ là trị ngọn. Nếu không trị bệnh tận gốc, mãi mãi con người luôn sống trong lo lắng, sợ hãi và đau khổ.

Mời các bạn đọc quyển sách HÀNH THẬP THIỆN để hiểu rõ cách trị mọi bệnh tật tận gốc tại đây. 

1/ Tâm chúng sanh vốn không dính mắc, không phiền não, chỉ vì vô minh lầm chấp cái Ngã (Ta) và Ngã Sở (của Ta) nên có dính mắc, có phiền não.

Tâm chúng sanh thường sống trong Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, nhưng vì tham, sân, si ở bên ngoài khởi dậy khiến cho tâm mất bình thường, ví nó đang duyên theo sáu trần.

Muốn làm chủ được già bệnh thì phải giữ tâm an vui đừng để phiền não xen vào. Nhờ cố giữ gìn, tức là hành THẬP THIỆN thì thân dần dần sẽ ít bệnh tật. Kinh Tăng Nhất A-Hàm dạy: Thoát tai nạn hữu vi, nghĩa là tư tưởng không còn bị ảnh hưởng vật chất thế gian, đời sống không còn nô lệ cho vật chất.

2/  Hành THẬP THIỆN thân, tâm của chúng ta phải hoàn toàn hòa hợp với mọi đối tượng, nghĩa là chúng ta phải tùy thuận với tất cả chúng sanh. Phải hiểu chúng sanh tức là thân và tâm của mình, thân và tâm của mình tức là chúng sanh.

Tu THẬP THIỆN chúng ta phải ý thức sự dung thông với vạn hữu là một việc làm tối quan trọng của sự tu quán. Nếu hành giả không dung thông được thì sự thể hiện THẬP THIỆN chỉ có kết quả năm phần mười chớ không thể đạt được kết quả theo ý muốn.

Muốn giải thoát tâm hồn đau khổ phiền lụy, hành giả phải nhận thức rõ ràng THẬP THIỆN và DUNG THÔNG là một, nghĩa là phải tùy thuận lại đối tượng để giải quyết tâm lý mình một cách rất tế nhị và phi thường. Đó là một pháp môn mầu nhiệm và cần thiết cho những ai muốn hưởng được hạnh phúc chơn thật trong cõi thế gian này.


THẬP THIỆN là pháp môn dung thông vạn hữu với tâm mình. Nhờ pháp môn này mà vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ mới tùy thuận lẫn nhau, mới chung sống với nhau, mới hoàn mãn sự giải thoát nơi tâm hồn mình. Thể hiện như vậy, vạn hữu không còn là chướng ngại, nó là tâm mình, tâm mình là vạn hữu; THẬP THIỆN là tâm mình, tâm mình là THẬP THIỆN.

Friday, 10 January 2020

Hiểu Rõ Nhân Quả

Nói đến nhân quả thì mọi người đều hiểu đại khái sơ sơ, loại như: “ Gieo gió gặt bão, gieo nhân nào gặt quả ấy “ Vậy cụ thể nhân quả thể hiện như thế nào trong đời sống. 

Người hiểu rõ nhân quả thì họ luôn nhìn đời với đôi mắt nhân quả, nghĩa là mỗi mỗi 1 chuyện xảy ra xung quanh chúng ta đều là nhân quả, dù là một chuyện nhỏ như hột cát, cây kim. Từng chuyện xảy ra hằng ngày, hàng phút, hàng giây đều là nhân quả, nhìn thấy quả biết nhân, nhìn thấy mình đang gieo nhân gì thì biết sẽ gặp quả đó trong tương lai. 

Ngoài ra, họ còn hiểu rõ tính chất của nhân quả. Vậy nhân quả có bao nhiêu tính chất? Rất nhiều, đại khái tôi xin liệt kê vài cái đơn giản mà tôi biết:

-        Tính chất một nhân có nhiều quả. 
-        Tính chất quả luôn to hơn nhân. 
-        Tính chất một quả có nhiều nhân. 
-        Tính chất nhân nào quả đó. Quả nào nhân đó. 
-        Tính chất thiện và ác. 
-        Tính chất vô thường. 
-        Tính chất chuyển đổi, chuyển hóa. 
-        Tính chất hiện tại tái sanh. 
-        Tính chất công bằng. 
-        V. V…

Để tìm rõ về những tính chất trên chúng ta hãy luôn liên hệ nhân quả đời sống con người giống như nhân quả thực vật. Vì con người, động thực vật đều tồn tại trong một môi trường vũ trụ nhân quả cho nên nhân quả của con người, của vũ trụ, của thiên nhiên thời tiết,… Không khác gì so với nhân quả thực vật. 

1/ Tính chất một nhân có nhiều quả: gieo 1 hạt chanh, 1 hạt đu đủ,… đều cho ra trái nhiều quả chanh, trái đu đủ. Gieo nhân mắng chửi người ta thì coi chừng bị nhiều người, nhiều lần bị người khác mắng chửi lại. Không những bị mắng không mà có khi còn bị đánh, bị đập, bị đâm, bị bắn, bị giết,.. 

2/ Tính chất quả luôn to hơn nhân: điều này ai cũng biết trái quả nào đều to hơn hạt. Một lời nói không vừa lòng nhau có thể dẫn đến nhiều sự hiểu lầm và những việc xảy ra trầm trọng khác như cãi vả, nghi kỵ, mất lòng tin,… Giống như có câu “ Chuyện nhỏ xé to “

3/ Tính chất một quả có nhiều nhân. Trong một trái chanh, trái đu đủ có rất nhiều hạt. Khi bị mắng chửi trong tâm chúng ta ai cũng đều có sự giận dữ, nóng giận, muốn mắng chửi lại, muốn đánh, muốn vả, muốn đâm, muốn chém, muốn giết hoặc là ngược lại chỉ nhẫn nhịn, im lặng, yêu thương, tha thứ. Tất cả những tâm trạng đó đều là nhiều nhân từ 1 quả bị mắng chửi. 

4/ Tính chất nhân nào quả đó. Quả nào nhân đó. Gieo hạt chanh sẽ cho ra trái chanh, chứ không thể hái được quả đào hay đu đủ. Nhìn trái chanh thì biết do gieo hạt chanh mà có. Quả có thân bị bệnh đau nhức, bị đủ loại bệnh,.. Bị người khác đâm, chém, giết là do đã gieo nhân xem thường mạng sống của các loài động vật khác, là do gieo nhân dùng dao cắt họng, thọc bụng,  làm thịt, cạo da,  giết hại và ăn thịt các loài vật khác. 

5/ Tính chất vô thường. Vô thường là luôn thay đổi, không bền chắc. Dù là trái quả nào chín xong rồi cũng héo tàn, vị ngọt thành nhạt dần, không thể nào mãi mãi ngọt. Dù chúng ta gặp chuyện tốt hay xấu nào xảy đến, những chuyện đó rồi cũng qua, không ai mỗi lần mua vé số đều trúng, không ai gặp chuyện xấu chuyện xui mãi. 

6/ Tính chất chuyển đổi, chuyển hóa. Với thời đại công nghệ khoa học cao như ngày nay, con người đã cải tiến những thực vật có tính chất xấu thành tốt hơn như các giống lúa tăng năng suất, thơm hơn, mềm hơn, hoa đủ mày, đẹp hơn, trái cây ngọn, bổ, đẹp và ít hột hơn. Nhân quả là có thể thay đổi, chúng ta đang sống trong môi trường nhân quả, nhân quả luôn thay đổi, không cố định, là vô thường. Chỉ cần chúng ta luôn biết giao nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện, không còn gieo nhân ác nữa thì cuộc đời này không phải là thiên đường sao. Do vậy không có định mệnh hay số mệnh mà chỉ có nhân quả. Chúng ta đã biết tính chất trong quả có nhiều hạt do vậy hãy luôn giữ gìn và trao dồi tâm thiện dù bất kỳ chuyện xấu gì xảy ra. 

7/ Tính chất hiện tại tái sanh. Một cây đu đủ có nhiều quả, trong quả có nhiều hạt,. Chúng ta lại tiếp tục lấy những hạt mới đó gieo xuống thì sẽ tiếp tục gặt hái những quả đu đủ mới, cứ như vậy tiếp tục những cây quả cháu, chắt, chít,… của cây đu đủ đầu tiên xuất hiện và tồn tại. Điều tôi muốn nói ở đây là dù đã có cháu, chắt hoặc chít,…nhưng cây đu đủ đầu tiên vẫn có thể còn sống chưa chết. Mỗi một hành động tốt xấu của người tạo ra hằng ngày khi đủ duyên chúng sẽ kết hợp tái sanh ra thành hàng trăm, hàng nghìn con người hay các loài vật khác, chứ không phải chờ khi người đó chết rồi mới có tái sanh. Tái sanh luôn xảy ra trong hiện tại. 

Chính vì biết một nhân luôn có nhiều quả, chứ ít khi có 1 quả, do vậy ai biết sống gieo nhân yêu thương thì sẽ tái sanh làm người trong hiện tại, ai gieo nhân không yêu thương, không quý trọng sự sống của các loài động vật khác thì trong hiện tại nghiệp nhân quả tương ưng tái sanh thành hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn loài vật như gà, vịt, cá, ốc, tôm, cua, chó, mèo để trả nhân quả. Những con người hay các loài động vật đó cũng sẽ bị người khác giết, bị cạo da, bị nướng cháy, bị hỏa hoạn,  bị đâm chém, bị đánh đập hoặc chính thân họ bị đủ các loại bệnh, thân luôn bị đau nhức . Do có tính chất tái sinh hiện tại này mà chúng ta thấy dân số  của loài người và động vật ngày càng nhiều và đông hơn.

8/ Tính chất công bằng. Đã gieo nhân thì có ngày gặt quả. Khi đủ duyên thì cây sẽ có quả. Đất có đầy đủ dinh dưỡng, khí hậu tốt, có sự chăm sóc tốt thì cây sẽ có quả tốt. Quả không đến sớm thì đến muộn. Đã gieo nhân thì sẽ có quả. Không ai trốn được. Không thể có chuyện làm chuyện xấu trộm cắp, giết người rồi đi vào chùa, đền thờ bỏ tiền ra cầu xin thần thánh tha tội hay nhờ các vị thầy trong chùa tụng niệm cầu an, cầu siêu cho là sẽ hết tội, là sẽ được tái sanh được thân người có phú có quý. Đó là trái với luật nhân quả.

 Chính vì nhân quả công bằng cho nên có thân người hay động vật sinh ra được phú quí, hoặc bị nghèo, bị bệnh tật, bị chết yểu, bị bỏ rơi, bị ganh ghét, bị đánh,… Do nhân quả công bằng nên mới có sự tái sanh luân hồi,  để con người hoặc các loài động vật trả nhân quả kiếp trước. Chứ không phải chết là hết, chết là rủ sạch tất cả, đó là thuyết không công bằng, thuyết này chỉ làm cho con người bất chấp mọi chuyện xấu, chạy theo dục vọng bản thân làm đủ chuyện xấu ác rồi nhờ các vị tu sĩ trong tôn giáo rửa tội, tha tội thì điều đó không thể xảy ra. Đã gieo nhân thì phải gặp quả. 

Do công bằng, do nhân quả là vô thường là có thể chuyển hóa được nên con người tự thay đổi,  tự chuyển hóa chính mình tiến đến sống thiện, nghĩ, nói và làm điều thiện, không nghĩ, nói hay làm điều ác nữa thì cuộc sống của người đó sẽ dần dần thay đổi thành tốt. Đúng như lời Đức Phật nói: “ Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, ta không thể thay các con đi được” Dù đã trở thành Phật có bao nhiêu quyền năng nhưng Đức Phật vẫn sống trong môi trường nhân quả, vẫn bị chịu nhân quả tác động, không thể thay con người gánh tội hay tha tội hay giúp cho người khác không bị quả ác đến thăm được. 


Người hiểu được nhân quả sẽ không lạc lối, không bị các thuyết phi nhân quả lừa gạt, họ luôn sáng suốt, tin vào chính mình, tin vào chỉ chính mình mới có thể tự chuyển đổi cuộc đời của mình, chớ không có bất kỳ ai có thể giúp mình dù Thần Thánh nào, Trời Phật nào cũng không thể.